Truyện ngắn của Konstantin Paustovsky. Minh Nguyễn dịch. Nguyên tác: Жильцы старого дома, 1940.
Chuyện phiền phức bắt đầu vào cuối mùa hè, khi Funtik, một chú chó dachshund chân vòng kiềng, xuất hiện tại ngôi nhà cổ ở làng. Funtik được chúng tôi mang về từ Moskva.
Một lần nọ, chú mèo đen Stepan đang ngồi như mọi khi ở hiên nhà, chậm rãi liếm láp rửa ráy cho mình. Chú liếm những ngón chân đang chìa ra, sau đó nheo mắt lại rồi gắng hết sức chà bàn chân vừa liếm ra sau tai. Bất chợt Stepan cảm nhận được ánh nhìn của ai đó. Chú mèo liếc xung quanh, đột nhiên cả người đông cứng lại cùng với bàn chân còn đặt sau tai. Đôi mắt của Stepan trở nên trắng đục đi vì tức giận. Một chú chó nhỏ với bộ lông màu hung đang đứng gần đó. Một tai chú chó cụp lại. Run run vì tò mò, chú chó vươn chiếc mũi ướt về phía Stepan – chú muốn đánh hơi sinh vật bí ẩn này.
“Ồ, thì ra là vậy!”
Stepan lựa lúc và giơ vuốt tát đúng ngay vào cái tai cụp của Funtik.
Thế là chiến tranh đã được tuyên bố, và kể từ đó cuộc sống đối với Stepan xem như đã mất đi tất cả sự quyến rũ vốn có của nó. Bây giờ thì chẳng còn thời gian mà nghĩ đến chuyện uể oải dụi mặt những cái rầm cửa nứt nẻ hay nằm dài bên chiếc giếng phơi mình dưới ánh mặt trời. Chú phải đi thật cẩn trọng, nhón gót, quan sát xung quanh thường xuyên hơn và luôn nhắm trước một cái cây hoặc bờ rào để kịp thời chạy thoát khỏi Funtik.
Stepan, giống như tất cả những chú mèo khác, có những thói quen khó đổi. Vào buổi sáng, chú thích đi dạo quanh khu vườn mọc um tùm những đám hoa bạch khuất thái, đuổi những con sẻ đậu trên những cây táo già, bắt những con bướm bắp cải cánh vàng và mài vuốt trên băng ghế dài mục nát. Còn bây giờ chú phải đi vòng quanh khu vườn nhưng không phải trên mặt đất, mà là dọc theo một hàng rào cao, không hiểu sao lại được bao phủ bởi những cuộn thép gai rỉ sét và hơn nữa còn chật hẹp đến mức có lúc Stepan đã phải đắn đo một hồi lâu mới biết nên đặt chân mình xuống đâu.
Nói chung, có đủ điều phiền phức trong cuộc sống của Stepan. Một lần nọ, chú ta ăn vụng con cá chép với một chiếc lưỡi câu còn mắc ở trong mang – Stepan thậm chí chẳng hề hấn gì sau khi xơi sạch sẽ con cá. Nhưng chưa bao giờ chú phải chịu nhục vì một con chó lùn có cẳng chân bè ra như chân chuột. Bộ ria của Stepan như run lên vì bực tức.
Chỉ duy nhất một lần trong suốt mùa hè, Stepan được một trận cười toe toét khi đang ngồi trên mái nhà.
Trong sân, giữa đám cỏ ỷ lăng bạc xoăn lá có một cái bát bằng gỗ đựng nước đục – chúng tôi thường ném vào đó những mẩu vỏ bánh mì đen cho lũ gà ăn. Funtik bước gần chiếc bát và cẩn trọng tha ra một mẩu lớn vỏ bánh ướt nhão.
Một con gà trống cao cẳng hay gây sự, có biệt danh là “Cổ họng”, nhìn chằm chằm Funtik bằng một con mắt. Sau đó, nó quay đầu và nhìn chú chó bằng con mắt còn lại. Con gà trống không thể tin rằng ở đây, cạnh ngay nó, giữa ban ngày ban mặt lại diễn ra một vụ cướp trắng trợn đến như thế.
Sau một hồi mung lung, con gà trống nhấc cẳng lên, mắt đỏ rần, trong mề có thứ đó bắt đầu rạo sôi như thể một cơn sấm xa đang nổi lên ầm ầm. Stepan biết điều đó có nghĩa là gì – con gà trống đang nổi cơn thịnh nộ.
Giậm đôi chân chai sần, con gà trống hung hãn lao vun vút đến chỗ Funtik và mổ vào lưng chú chó. Một tiếng mổ bụp ngọn và đanh. Funtik nhả mẩu bánh mì ra, cụp tai lại, ăng ẳng tuyệt vọng trốn vào lỗ thông hơi dưới gầm nhà.
Con gà trống vỗ cánh đắc thắng, cuốn bụi bay lên mù mịt. Nó mổ vào vỏ bánh sần sùi nhưng rồi ngay lập tức ném sang một bên với vẻ kinh tởm – chắc hẳn mẩu bánh đã ám đậm mùi chó.
Funtik thu mình trốn dưới gầm nhà suốt mấy tiếng đồng hồ và chỉ đến khi tối mịt mới ra ngoài và đi luồn phía sau con gà trống để vào phòng. Mõm chú chó phủ đầy mạng nhện và những con nhện khô còn bám cả vào trên ria.
Nhưng đáng sợ hơn cả con gà trống là một con gà mái còm nhom lông đen. Quanh cổ con gà vấn một bộ lông choàng lòe loẹt, nom nó chả khác gì một mụ di-gan bói toán. Chúng tôi đã phí tiền khi mua phải con gà này. Không phải vô cớ mà các bà già trong làng bảo rằng lông nó đen vì quá cáu kỉnh.
Con gà này bay nhảy như quạ, háu đấu đá và có thể đứng hàng giờ trên mái nhà và la hét không ngưng nghỉ. Chẳng có cách nào để đánh bật nó xuống khỏi mái nhà, thậm chí ném gạch đá vào nó cũng chả ăn thua. Mỗi lần chúng tôi trở về từ đồng cỏ hay cánh rừng, có thể thấy ngay con gà này từ xa – nó đứng ngay trên ống khói, nom như được đẽo ra từ sắt tây.
Nó làm gợi nhớ lại những quán rượu thời Trung cổ mà chúng tôi đã đọc trong tiểu thuyết của Walter Scott. Trên mái của những quán rượu này có những con gà trống hoặc gà mái bằng sắt tây nhô lên trên một cái cột, thay cho biển hiệu.
Cũng giống như trong một quán rượu Trung cổ, chúng tôi được chào đón tại nhà bằng những bức tường gỗ sẫm màu phủ bám rêu vàng, những khúc củi cháy trong bếp lò và mùi hạt thì là Ba Tư. Chẳng rõ vì nguyên cớ gì mà ngôi nhà cũ lại có mùi thì là và mùn gỗ.
Chúng tôi đọc tiểu thuyết Walter Scott trong những ngày nhiều mây, khi cơn mưa ấm êm ả rì rào trên mái nhà và trong vườn. Những chiếc lá ẩm ướt trên cành run lên vì những hạt mưa tí hon, nước từ ống thoát đổ ra thành dòng mỏng tang và trong suốt, và ngay dưới đường ống đó có một chú ếch xanh bé nhỏ đang ngồi trên vũng nước. Nước đổ thẳng xuống đầu, nhưng chú ếch không hề suy chuyển mà chỉ chớp chớp con mắt.
Khi trời không mưa, chú ếch ngồi ở vũng nước dưới bệ rửa mặt. Cứ mỗi phút, nước lạnh từ bệ rửa mặt lại nhỏ giọt xuống đầu chú. Từ những tiểu thuyết tương tự của Walter Scott, chúng tôi đã biết rằng vào thời Trung cổ, sự tra tấn kinh khủng nhất chính là bị là nước lạnh đổ từ từ xuống đầu, nên chúng tôi đã rất ngạc nhiên về chú ếch nọ.
Thỉnh thoảng vào buổi tối, chú ếch lại nhảy vào nhà. Chú nhảy qua ngưỡng cửa và có thể ngồi hàng giờ mà ngắm ngọn lửa đèn dầu.
Thật khó để hiểu nổi tại sao ngọn lửa này lại thu hút chú ếch đến vậy. Nhưng sau rồi chúng tôi đoán rằng chú ếch đến để ngắm nhìn ngọn lửa cháy sáng giống như cách mà trẻ em quây quần bên chiếc bàn trà bừa bộn để được nghe kể một câu chuyện cổ tích trước khi ngủ. Ngọn lửa lóe lên rồi yếu dần khi những con muỗi vằn xanh chết cháy trong bóng đèn dầu. Nó nom như thể là một viên kim cương lớn đối với chú ếch, nơi mà nếu nhìn vào lâu, bạn có thể nhìn thấy ở mỗi mặt viên cương là cả một xứ sở với những thác nước vàng và những ngôi sao ngũ sắc lấp lánh.
Chú ếch đắm chìm vì câu chuyện cổ tích này đến nỗi phải dùng que cù vào để chú có thể tỉnh ra và nhảy về chỗ dưới thềm nhà mục nát – nơi những bông bồ công anh gượng mình nở trên những bậc tam cấp.
Mái nhà bị dột lỗ chỗ trong suốt trận mưa. Chúng tôi đặt các chậu đồng trên sàn nhà. Vào ban đêm, nước chảy vào chậu đặc biệt ngân vang và đều đặn, và tiếng ngân này thường trùng với tiếng của chiếc đồng hồ tích tắc vang vọng.
Chiếc đồng hồ treo tường trông rất ngộ nghĩnh – được vẽ lên những hình bông hồng và cỏ ba lá mỹ lệ. Funtik mỗi khi đi ngang qua lại khẽ gừ lên – phải làm như thế để chiếc đồng hồ biết rằng có một con chó trong nhà, để mà cảnh giác và không cho bản thân được phép tự tung tự tác – không được chạy sớm ba tiếng mỗi ngày hay không được dừng lại mà không có bất cứ lý do gì.
Có nhiều món đồ xưa cũ từng được sử dụng trong nhà. Ngày xưa những thứ này là vật cần thiết của người ở trong ngôi nhà, nhưng bây giờ chúng bám đầy bụi và cũ nát, nằm lăn lóc trên gác mái đầy lúc nhúc chuột.
Thỉnh thoảng, chúng tôi lại tổ chức những cuộc khai quật trên gác mái, giữa những khung cửa kính vỡ và tấm rèm bờm xờm làm bằng mạng nhện, chúng tôi tìm thấy một hộp sơn dầu phủ đầy những giọt màu cứng khô, rồi một chiếc quạt xà cừ gãy, rồi đến một cái xay cà phê bằng đồng từ thời Trận phòng thủ Sevastopol, rồi một cuốn sách to nặng khổng lồ với những hình khắc lịch sử cổ đại, và cuối cùng là một tập tranh chuyển họa.
Chúng tôi đã đồ lại chúng. Từ dưới lớp màng giấy phim ướt nước xuất hiện quang cảnh rực rỡ và lớp nhớp của vùng Vesuvius, những con lừa Italy quàng vòng hoa hồng, những bé gái đội mũ rơm với dải băng sa tanh màu xanh chơi trò lăn vòng xe, và những chiến thuyền được bao quanh bởi những đám khói thuốc súng hình cầu.
Một lần nọ khi lên trên gác mái, chúng tôi tìm thấy một hộp gỗ màu đen. Trên nắp có dòng chữ tiếng Anh bằng đồng: “Edinburgh. Scotland. Do nghệ nhân Galveston chế tác”.
Chúng tôi mang chiếc hộp vào các phòng, cẩn thận chùi sạch bụi và mở nắp. Bên trong có những trục quay bằng đồng với những chốt nhỏ bằng thép. Gần mỗi trục quay có một con chuồn chuồn, bướm hoặc bọ cánh cứng bằng đồng đậu trên một đòn bẩy bằng đồng.
Đó là một chiếc hộp nhạc. Chúng tôi thử bật lên, nhưng nó không chơi. Trong tuyệt vọng, chúng tôi ấn đè lên lưng những con bọ cánh cứng, bướm và chuồn chuồn – thế là chiếc hộp đã bị hỏng.
Sau buổi trà đêm, chúng tôi bắt đầu tán gẫu về nghệ nhân bí ẩn Galveston. Mọi người đều đồng tình rằng đó là một người Scotland cao tuổi, vui vẻ trong chiếc áo ghi lê kẻ sọc và chiếc tạp dề bằng da. Trong khi làm việc, mài các trục quay bằng đồng, có lẽ ông ta đã huýt sáo một khúc ca về người đưa thư thổi tù và trong thung lũng mù sương và một cô gái lượm củi trên núi. Giống như tất cả những nghệ nhân ưu tú, ông ta kể về với những việc ông đã làm và bàn tiếp về cuộc sống tương lai sau này của họ. Nhưng tất nhiên là ông ta không thể ngờ rằng chiếc hộp màu đen này sẽ rơi từ bầu trời xanh lợt của xứ Scotland xuống những cánh rừng thưa bên kia sông Oka, xuống một ngôi làng mà chỉ có những chú gà trống gáy giống như ở Scotland, nhưng còn mọi thứ khác thì chả giống với xứ sở phương Bắc xa xôi đó chút nào.
Kể từ đó, nghệ nhân Galveston đã trở thành một trong những cư dân vô hình của ngôi nhà thôn quê cổ kính. Đôi khi đối với chúng tôi, dường như chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng ho khan của ông ta khi ông vô tình hít phải khói từ tẩu thuốc. Và mỗi khi chúng tôi cùng nhau đóng một cái gì đó – một cái bàn trong vọng lâu hoặc một chuồng chim mới – và mỗi khi cãi nhau về cách cầm cái bào gỗ hoặc ráp hai tấm ván vào với nhau, chúng tôi thường hay nhắc đến nghệ nhân Galveston, như thể ông ấy đang đứng gần đó và đang nheo đôi mắt xám giễu cợt nhìn vào đống lộn xộn của chúng tôi. Và tất cả chúng tôi lại cùng nhau hát nhép theo khúc ca yêu thích cuối cùng của Galveston:
Từ biệt đất liền – những đoàn tàu ra khơi!
Tạ từ nhé, mái ấm thân yêu của tôi…
Chiếc hộp được đặt trên bàn, bên cạnh chậu hoa phong lữ thảo, và cuối cùng chúng tôi đã quên khuấy mất nó.
Nhưng vào một ngày mùa thu nọ, lúc đêm muộn, trong ngôi nhà cổ kính trầm mặc bỗng vang vọng một tiếng ngân trong như thủy tinh, như thể ai đó đang đánh chuông bằng những chiếc búa nhỏ, và một giai điệu cất lên, tuôn theo cùng tiếng chuông tuyệt vời này:
Người sẽ trở về những ngọn núi thân yêu…
Chợt thức giấc sau nhiều năm say ngủ, chiếc hộp lại bắt đầu chơi nhạc. Ngay phút đầu tiên, nó làm chúng tôi thấy hoảng sợ, và ngay cả Funtik cũng sợ thét lên, lắng nghe, cẩn trọng vểnh hết tai bên này đến tai bên kia. Rõ ràng là có cái dây cót lò xo nào đó đã nảy bật lên ở trong chiếc hộp.
Chiếc hộp phát nhạc một lúc lâu rồi dừng lại, rồi lại làm tràn ngập căn nhà bằng tiếng chuông bí ẩn, mà ngay cả chiếc đồng hồ treo tường cũng phải im lặng vì kinh ngạc.
Chiếc hộp đã phát tất cả các bài hát của nó, rồi chìm vào im lặng cho dù chúng tôi cố gắng như thế nào đi nữa cũng không thể làm cho nó phát trở lại.
Lúc này là cuối thu, tôi đang sống ở Moskva, còn chiếc hộp ở lại đó một mình trong căn phòng trống rỗng, không có lò sưởi, và có lẽ vào những đêm mịt mù tĩnh lặng, nó thức dậy và phát nhạc, nhưng không có ai ở đó để lắng nghe nó ngoại trừ lũ chuột đáng sợ.
Trong một khoảng thời gian dài sau đó, chúng tôi vẫn huýt vang giai điệu về những ngọn núi hoang vắng thân yêu, cho đến một ngày một con chim sáo già hót cùng với chúng tôi – nó sống trong một chuồng chim gần cổng. Cho đến lúc đó, nó vẫn hót những bài hát khàn khàn và lạ tai, nhưng chúng tôi đã lắng nghe với lòng ngưỡng mộ. Chúng tôi đoán rằng nó đã học những bài hát này vào mùa đông ở Châu Phi, nghe lỏm từ các trò chơi của những trẻ em da đen. Và chẳng biết vì cớ gì mà chúng tôi thấy rất vui khi mùa đông năm sau, ở một nơi nào đó xa lơ xa lắc, trong những khu rừng rậm bên bờ sông Niger, con chim sáo sẽ hát dưới bầu trời Châu Phi một bài hát về những ngọn núi già cỗi hoang vắng ở Châu Âu.
Mỗi buổi sáng, chúng tôi đặt những mẩu bánh vụn và ngũ cốc trên chiếc bàn gỗ trong vườn. Hàng chục chú chim sẻ nhanh nhẹn đổ xô xà xuống bàn và mổ những mẩu bánh. Các chú chim sẻ có đôi má trắng mịn, và lúc các chú đồng loạt mổ nom như là hàng chục chiếc búa trắng đang hối hả đập xuống bàn.
Những chú chim sẻ đang cãi nhau, kêu la răng rắc, và tiếng răng rắc này gợi nhớ đến những cú gõ bằng móng tay vào ly, hòa thành một giai điệu vui tươi. Trông chúng nom như thể một hộp nhạc sống ríu rít đang phát trên chiếc bàn cũ trong vườn.
Trong số những cư dân của ngôi nhà cổ, ngoài Funtik, chú mèo Stepan, con gà trống, chiếc đồng hồ treo tường, hộp nhạc, nghệ nhân Galveston và con chim sáo, còn có một con vịt trời đã được thuần hóa, một chú nhím bị mất ngủ, một chiếc chuông có khắc dòng chữ “Quà tặng vùng Valdai” và một chiếc phong vũ biểu luôn hiển thị “độ khô cao”… Chúng ta sẽ phải bàn về chúng vào lúc khác – lúc này thì trời đã muộn.
Nhưng sau câu chuyện nhỏ này, nếu bạn mơ thấy điệu nhạc đêm khuya vui vẻ phát ra từ hộp nhạc, tiếng hạt mưa rơi xuống chậu đồng, tiếng rên rỉ không hài lòng với chiếc đồng hồ treo tường của Funtik, và tiếng ho của Galveston tốt bụng, tôi sẽ nghĩ rằng tôi đã không làm chuyện vô ích khi kể cho bạn nghe về tất cả những điều này.
MINH NGUYỄN dịch.
Minh họa: G.I. Epishin, 1987.