Truyện ngắn của Konstantin Paustovsky, Minh Nguyễn dịch. Nguyên tác: Степная гроза, 1944.
Ngôi nhà gỗ xám màu cũ kỹ, nép mình vào sườn một khe núi. Bên trên, dọc theo mép khe là những hàng liễu trơ trọi xào xạc vì gió xuân, bên dưới là dòng suối nông rì rào chảy qua một chiếc mũ sắt Đức cong queo.
Chiếc mũ sắt nằm dưới suối đã lâu, hơn một năm, đã hoen gỉ thế nhưng những chú bé ở Slobodka không hề động đến. Có thể bởi vì các các chú đã hạn chế ra khỏi nhà khi không cần thiết, hoặc có thể bởi vì các chú bây giờ đã có kinh nghiệm với mìn. Khi chạm vào chiếc mũ sắt như vậy, một quả mìn ngay gần đó sẽ lập tức nổ – và sau đó là “bùm”! Từ “bùm” trong ngôn ngữ của các chú bé có nghĩa là bất kỳ sự bất ngờ nào, kể cả cái chết đột ngột.
Sống trong ngôi nhà này là người giáo viên địa lý già Ivan Lukich, còn có biệt danh là “Patagon”. Họ gọi ông như vậy do vóc dáng cao lớn, khuôn mặt ửng đỏ và thô sạm đi vì sương gió. Ivan Lukich là một người đàn ông cô độc và trầm lặng. Trước chiến tranh, ông dành nhiều thời gian đi thuyền trên sông Dnieper để câu cá.
Ngoài Ivan Lukich, trong ngôi nhà này còn có cậu bé mười tuổi Yurka, con trai duy nhất của một ngư dân góa vợ từ đảo Volny. Hầu như mùa hè nào “Patagon”[1] cũng đều đến thăm cha của Yurka – Nikifor Bezperechny, cùng ông đến vùng nước ngập Dnieper để câu cá chép.
Trước khi quân Đức tràn đến, Nikifor đưa Yurka đến Kherson sống với Ivan Lukich và nói rằng bản thân ông, Nikifor, sẽ đi thuyền với các ngư dân đến pháo đài Kinburn, và sẽ chiến đấu với quân Đức ở đó, như “những chàng Zaporozhian ký ức vĩnh hằng” đã chiến đấu với quân Thổ năm xưa.
Vào giây phút cuối, Nikifor kéo Yurka lại gần ông, vò rối mái tóc cậu và nói:
“Ở lại đây đợi cha về. Hãy lắng nghe Ivan Lukich, bởi vì bác ấy biết những tỷ lệ và ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.”
Nikifor thích diễn đạt một cách trang trọng và mơ hồ.
Một ngày sau khi Nikifor rời đi, Ivan Lukich định cùng với Yurka chạy trốn khỏi quân Đức, nhưng ông đành phải ở lại – không có gì để vượt sông Dnieper. Ivan Lukich đã nhường thuyền của mình cho những người lính, và không còn lại chỗ trống nào.
Quân Đức hiếm khi ghé lại Slobodka. Họ không quan tâm đến những căn nhà xiêu vẹo được chắp vá bằng sắt tây hoen gỉ và những vườn rau nhỏ ẩm thấp. Quân Đức đóng quân trong thành phố, chặt cây trong vườn bách thảo được trồng dưới thời nữ hoàng Catherine làm củi, đẩy người Do Thái vào thảo nguyên và mở “sòng bạc” có nhạc cho các sĩ quan trong nhà hát thành phố.
Ivan Lukich và Yurka phải chịu đói kém. Yurka thu thập những cây rau chút chít mọc dọc theo khe núi, và họ chỉ sống dựa vào thứ rau này. Ngoài ra còn có một lượng dự trữ không nhiều bánh mì sấy bám đầy bụi và một ít khoai tây. Quân Đức cấm đánh bắt cá trên sông Dnieper. Ivan Lukich đã khốn khổ vì điều này. Yurka cũng khó chịu – ngay từ khi còn nhỏ cậu đã quen với những trận chiến của lũ cá măng dưới những sườn núi dốc và với mùi lau sậy.
Ban ngày luôn không bình yên trong thành phố và ở cả Slobodka. Ban đêm cũng không khá hơn, nhưng với Ivan Lukich và Yurka, những đêm đó dường như lại an toàn hơn, như thể bóng tối trong khe núi ngăn cách họ với quân Đức bằng một bức tường. Vào lúc chạng vạng tối, Ivan Lukich chèn cửa bằng then sắt, kéo rèm cửa sổ, thắp lửa lên cây đèn cổ đúc bằng đồng, đặt những tập Niva nặng trĩu lên bàn ở hai bên và bình tĩnh hút điếu thuốc đầu tiên trong cả ngày, được cuộn dày lá thuốc lào trộn với cây tầm ma khô.
Yurka đang ngồi bên bàn, nhìn vào phòng của Ivan Lukich, và mọi thứ trong đó có vẻ thú vị và sống động đối với cậu: một tập át-lát Petri khổng lồ trên bàn với bìa xanh lá cây mạ chữ vàng, những chiếc bình bụi bặm chứa hạt giống, một tủ sách bằng gỗ sồi và một chiếc đồng hồ hình ngôi nhà Thụy Sĩ. Một cô gái bằng đất sét mặc áo màu xanh lá và mang váy đỏ có diềm xếp nếp đứng gần nhà, cho những con cừu trắng cũng bằng đất sét ăn. Đồng hồ này chậm hơn bốn giờ một ngày. Trên tường treo các bức tranh: “Cuộc vượt đèo St. Gotthard của Suvorov” của Surikov[2], “Làn sóng thứ chín” của Aivazovsky[3] và chân dung của nhà thám hiểm Miklouho-Maclay[4] – một người đàn ông gầy gò với bộ râu tương tự như Ivan Lukich.
Ivan Lukich ngồi xuống chiếc ghế bọc thảm sờn rách, lấy ra từ ngăn kéo bàn một hộp trứng cá muối bằng sắt đựng các phụ kiện câu cá, nhìn ngắm các móc câu, phao, cục chì, mồi giả một lúc lâu rồi thở dài.
Chiếc bàn sặc mùi thuốc lá và thuốc tây. Trong những ngăn kéo đặt những chồng giấy kẻ vàng, một chiếc kính lập thể soi hình ảnh nổi của tất cả các thủ đô châu Âu, ống nhòm bằng đồng và nhiều thứ thú vị khác.
Với mỗi tháng trôi qua, đống đồ này lại trở nên vơi đi. Ivan Lukich đã bán chúng ở một khu chợ trời nhỏ, và bản thân ông đã ngạc nhiên khi có người mua chúng.
Nhưng, bất kể đã bán đi mọi thứ, Ivan Lukich vẫn nhanh chóng ốm yếu đi và sớm không còn giống với một người Patagon nữa. Da mặt trở nên xám xịt và sưng tấy. Ivan Lukich than phiền về cái lạnh và đi ngủ mà không cởi mũ ra.
Ngày giải phóng đang đến gần. Hồng quân đang tiến từ phía đông, và Ivan Lukich đo đạc bản đồ thường xuyên hơn bằng một chiếc compass cũ, tự hỏi khi nào thì các đơn vị Liên Xô sẽ đến được thành phố.
Một đêm Ivan Lukich lâu không ngủ, trằn trọc, thậm chí trở dậy. Ngoài trời tĩnh lặng. Thỉnh thoảng chỉ có tiếng những cây liễu già xào xạc rồi lặng đi hoặc một máy bay không rõ của phe nào vù vù ở phía trên cao ngôi nhà. Vào lúc bình minh, Ivan Lukich đánh thức Yurka, nói:
“Dậy đi! Thính giác của cháu nhạy hơn bác.”
Yurka bật dậy và đi đến cửa sổ. Buổi sáng hãy còn tối om và xám xịt. Yurka lấy tay áo lau ô kính bị mờ và áp trán vào. Tiếng kính rung khe khẽ, và một tiếng rầm vang từ xa nhưng mạnh mẽ từ từ lướt qua ngôi nhà và lặng dần trong khe núi. Sau đó là tiếng rầm thứ hai, rồi thứ ba. Trên bậc cửa sổ là cây lúa yến mạch được Ivan Lukich trồng trong một cái bát gỗ. Những ngọn cỏ mỏng manh của nó cong về phía tấm kính, như thể chúng cũng đang lắng nghe tiếng pháo.
Buổi sáng, Ivan Lukich đi ra chợ để tìm hiểu tin tức. Yurka bị bỏ lại một mình. Cậu ngồi trên sàn nhà ấm nắng và xem cuốn Niva 1907. Có người đến bên cửa sổ và gõ. Yurka khép lại tập “Niva”, cẩn thận nhìn ra từ đằng sau cuốn sách. Đứng bên ngoài cửa sổ là một người hàng xóm, bà Fedosya.
Yurka mở cửa cho bà. Bã lão bước vào, làm làm dấu thánh trước bức chân dung của Miklouho-Maclay và thì thầm:
“Quân Đức đang lo sốt vó. Chúng đi lùng sục từng nhà, truy tìm con cái và người thân thích của quân du kích. Rõ ràng là thế lực của chúng đã bắt đầu suy yếu và trước khi kết thúc, chúng muốn khủng bố người dân. Ivan Lukich đâu rồi?”
“Bác ấy ở chợ,” – Yurka khe khẽ trả lời.
“Nghe này!” – bà Fedosya nói. – “Tất cả chúng tôi đều biết rằng cháu là cháu trai của Ivan Lukich, nhưng có thể sẽ có một tên khốn nào đó ở Slobodka biết nhiều hơn chúng ta và sẽ mách cho bọn Đức biết cháu thực sự là ai. Sau đó, bọn Đức sẽ giết cả hai người ngay ở khe núi đầu tiên.”
“Tại sao lại giết bác ấy?” – Yurka hỏi.
“Vì để dằn mặt người cha ruột du kích của cháu,” – bà lão trả lời. – “Tất nhiên, vì cả lòng tốt của bác ấy nữa. Cả hai người cần phải đi đến thảo nguyên. Khi Ivan Lukich đến, nói với bác ấy như vậy. Nếu chúng tìm thấy cháu – chúng cũng sẽ giết bác ấy. Và ngôi nhà sẽ bị đốt.”
“Và họ sẽ không giết chỉ một mình bác ấy?” – Yurka hỏi. – “mà không có cháu?”
“Làm sao ta biết được!” – bà lão trả lời. – “Có lẽ họ sẽ không giết một người. Cần phải suy nghĩ, cậu bé ạ, rằng như thế họ sẽ chưa xong việc, vì họ không có bất kỳ bằng chứng nào. Và cháu chính là bằng chứng!”
Bà lão bỏ đi. Yurka đứng giữa phòng, vơ lấy áo khoác và mũ, đi ra ngoài, dùng gậy khóa cửa rồi chạy xuống khe núi vào thảo nguyên.
Thảo nguyên chỉ mới bắt đầu khô ráo khỏi lớp bùn mùa xuân. Nước chảy khắp nơi trong các khe, và những bông hoa khoản đông màu vàng đã hé nở trong nắng.
Yurka rời khỏi các chòm xóm. Đi về hướng Bắc, những cột điện báo của tuyến đường sắt đến Nikolaev khuất dần. Sau đó, cậu nhìn thấy trước mặt mình những người trên thảo nguyên và quay sang hướng nam… Những người này đang đào đất – họ phải đào hào hoặc rãnh chống lại xe tăng.
Yurka dừng lại gần một cái chòi kuren[5] cũ. Không có ai trong kuren, chỉ có đống củi mục nát và những vỏ dưa hấu vụ mùa trước nằm la liệt. Có lẽ, đã từng có một ruộng dưa ở đây và trong kuren này từng có một người canh gác già, giống như ông nội của Lysukh trên đảo Volny.
Ông nội của Lysukh bị mù và điếc. Ông không nhìn thấy gì cả, và do đó, khi ngồi bên kuren, ông luôn miệng hét lên một cách ngẫu nhiên về những cậu bé ăn trộm tưởng tượng: “Chà, hành quân qua ruộng dưa à, nhãi con! Nếu ta lấy cây gậy huyền thoại ra và đứng dậy, thì chú mày sẽ biết tay!”. Tiếng hét của cụ ông trên đồng dưa không người khiến các ngư dân thích thú. “Thật siêng năng,” họ nói. – “Ông ấy la hét suốt ngày, và những người đứa nhóc kéo dưa từ ngay dưới chân giường của ông. Chúa phù hộ ông ấy, để cho ông ấy canh gác. Ông già phải kiếm cơm.”
Yurka nhặt vỏ dưa hấu khô, lau vỏ rồi bắt đầu nhai. Chúng cứng như da trâu, nhưng có thể nhai thành một loại hồ chua chua.
Trời chiều như được phủ một khăn trải đầy mây, gió thổi hiu hiu, cỏ cây thoáng đung đưa. Yurka trèo vào túp lều, lật đống củi, ngồi xuống, thọc tay vào tay áo và suy nghĩ.
Phải làm gì tiếp theo? Như vậy cậu bé đã rời thành phố, vì chính cậu, vì Yurka mà quân Đức sẽ không giết được Ivan Lukich, cậu đã bỏ đi và không mang theo một chiếc bánh quy nào, trong lúc bối rối đã quên khuấy mang đồ ăn. Yurka nghĩ: “Mình sẽ ngồi yên trong kuren, không cử động, thở bằng mũi, như lời khuyên của Ivan Lukich, và chỉ đi ra ngoài khe núi để lấy nước. Như vậy thì mình sẽ cầm cự được cả tuần. Và trong một tuần nữa, có thể quân Đức và đám cảnh sát của chúng sẽ bị hạ gục, và chúng sẽ không có thời gian để ghim mình. Nhưng còn bác Ivan Lukich thì sao?”
Yurka bắt đầu đỏ mặt. Hơi nóng phả vào má. Bác Ivan Lukich sẽ nghĩ gì? Cậu ra đi, để lại bác ấy lại một mình, già nua, sợ hãi. Làm sao bác có thể biết được rằng Yurka rời đi để tránh nguy hiểm cho bác ấy! Và không có cách nào để lại một ghi chú: nếu quân Đức đến và tìm thấy nó, thì chắc chắn sẽ chết. Mình phải làm gì? Cha cậu luôn nói rằng không có “hành động xấu xa” nào trên đời tệ hơn là để người thân của bạn gặp rắc rối. Chẳng hạn, ông đã kể câu chuyện về gò mộ Cossack, nơi chôn cất những người Zaporozhian Cossack bị người Thổ Nhĩ Kỳ giết hại. Vì sự hèn nhát, quân Zaporozhian nhát gan giao nộp những người Cossack của mình cho quân Thổ, và như Nikifor đã nói, “những người Zaporozhian Cossack giao nộp bằng hữu của mình bị quân Thổ giết đầu tiên” – “Chính vì điều đó mà bị giết, Yurka! Chính vì điều đó!” – Nikifor nói thêm.
Phải làm gì bây giờ? Liệu có nên chạy về thành phố, giải thích cho Ivan Lukich hiểu tại sao cậu, Yurka lại đi đến thảo nguyên…
Trên thảo nguyên trời tối dần, gió thổi càng lúc càng mạnh. Những đám mây thấp đang tụ lại từ phía biển.
“Mình sẽ đợi cho đến khi màn đêm buông xuống,” – Yurka quyết định. – “Buổi tối mình sẽ vào lại thành phố, sẽ không có ai nhìn thấy mình, sẽ không tóm ai được mình cả. Và mình sẽ quay về thảo nguyên với Ivan Lukich.”
Yurka ôm đầu gối, gục đầu vào chúng, lặng im rồi thiếp đi.
Cậu tỉnh dậy trong bóng tối. Không có gió. Yurka cẩn trọng nhìn ra ngoài. Sương mù bao phủ khắp thảo nguyên, và ở phía đông trời sấm sét dữ dội – một cơn giông chắc hẳn đang đến gần. “Giá như trời không mưa,” – Yurka nghĩ và nhìn lên nóc kuren. Nó được lợp bằng lớp đất cỏ. Trong bóng tối, lờ mờ sáng lên những cái lỗ mà lớp đất cỏ sụp xuống.
Xa xa trên thảo nguyên có tiếng người hét lên. Yurka nín thở, lắng nghe. Tiếng hét được lặp lại, nhưng xa hơn. Người này chắc hẳn đã đi qua thảo nguyên, vấp ngã, đang tìm kiếm một ai đó, gọi bằng một giọng sầu não.
“Khùng thật!” – Yurka nghĩ. – “Một người đàn ông khỏe mạnh đi xuyên qua thảo nguyên trong đêm như vậy, có lẽ đã gào thét trước cái chết không tránh khỏi.”
Yurka ngẩng đầu lên và chờ đợi. Tiếng hét không lặp lại nữa. Trời tĩnh lặng trở lại, ngay cả tiếng sấm sét cũng không còn rền vang nữa, và Yurka nghe thấy tim mình đập mạnh đến mức trong mắt như phát ra tia sáng.
Có lẽ kẻ khùng điên nào đó đã chú ý đến kuren, im lặng và len lén đến gần nó?
Yurka ra khỏi kuren, bò dọc theo mặt đất ẩm ướt lẫn với lá cây. Có ai đó chạy trong bóng tối, dội tiếng ủng dậm, dừng lại, thở hổn hển nói: “Đúng là bọn đê tiện, sấm sét đánh chết chúng đi!” – và chạy tiếp. Chưa bao giờ Yurka thấy một đêm khủng khiếp như vậy.
Bầu trời đen như bồ hóng và mọi thứ xung quanh cũng giống như bồ hóng, nhưng ít ra cũng có một ngôi sao đang rực sáng lên trên nền trời!
Đột nhiên trong bóng đen bùng lên ngọn lửa đỏ lờ mờ, kuren sáng lên – nó ở rất gần, – màn đêm lại ập đến, sấm sét giáng xuống mặt đất mạnh đến nỗi Yurka giật bắn mình và cảm thấy đau đầu. Vội vàng và đứt quãng từng tiếng một, bầu trời đứt gãy đùng đoàng sấm sét, gió xạc xào, màn đêm hoang vu gào rít.
Yurka bật dậy và chạy vào thảo nguyên. Cậu loạng choạng và ngã xuống. Thứ gì đó đen đúa và ẩm ướt sột soạt rơi trên mặt đất, trên da, Yurka đã không hiểu ngay ra rằng trời đang mưa. Và từ phía đông, những loạt sấm sét ngày càng mở rộng ra, như thể những người khổng lồ đang xé toạc bầu trời, và đằng sau nó là một bầu trời khác mở ra từ một ngọn lửa giận giữ, đáng sợ. Mỗi khi thứ ánh sáng này lóe lên, Yurka lại nhìn thấy một mặt trời xù xì và dữ dằn lao tới, xoay tròn và lập lòe đằng sau một đám mây đen và tắt lịm đi ngay sau khi đám lửa này tàn lụi.
Mặt trời dường như lao trên đầu với một tốc độ kinh hoàng, nhưng đồng thời vẫn ở nguyên vị trí.
“Đây có phải là một cơn mơ?” – Yurka nghĩ thầm, va phải một thứ gì đó to lớn, đen xì và ngã xuống. “Một túp lều?” – Yurka nghĩ. – “Toàn bộ đã cong queo và nát gãy.” Cậu nắm lấy góc lều, bàn tay lấm vào lớp bùn dày đặc, dưới lớp bùn đó, các ngón tay cậu chạm vào thép lạnh. Ánh chớp sáng lên, và Yurka nhìn thấy vòng xích của một chiếc xe tăng bao phủ trong đất sét. Chúng treo thỏng, bị xé toạc bởi một vụ nổ, nặng nề và bất động. Thoảng có mùi khét của xăng.
Yurka nhảy né ra, ngã người về phía sau và bị trật chân. Cậu ngã xuống và nghe thấy tiếng hò hét của hàng trăm người ở phía xa trong màn đêm tối đen như mực. “Đến đây đi!” – Yurka hét to lên và không nghe thấy gì nữa – chỉ có đất ken két trên răng.
Khi cậu mở mắt ra, trên đầu có những đám mây nhẹ miễn cưỡng trôi trên bầu trời trong xanh buổi sáng sớm, chúng như muốn dừng, nhưng không dừng trôi được. Không thể nhìn vào cái ngọn màu trắng của chúng, chỗ đang chói sáng lên bởi ánh mặt trời. Cậu bé như muốn nằm trên rìa của một đám mây như vậy và lơ lửng bay qua thảo nguyên.
Yurka nheo mắt, nhưng không nhìn thấy mặt đất đâu. Mây từ từ trôi ở tứ phía, như thể cậu đang nằm giữa không trung và bầu trời bao la đang trầm mặc xoay quanh cậu như một chiếc vòng đu quay bằng mây. Những chú sẻ Bohemian đậu cạnh một chú chim thảo nguyên nhỏ bé.
Yurka ngẩng đầu lên và nhìn thấy mình đang nằm trên đống rơm khô, trên một chiếc xe tải. Xe đã đậu.
Sau đó, một chiếc mũ sắt xuất hiện ở phía hông xe. Yurka co người lại, nhìn vào chiếc mũ sắt; tim cậu đập thình thịch.
Chiếc mũ sắt từ từ ngước lên, và ngay sau đó, dưới mũ hiện ra khuôn mặt đầy tàn nhang của một anh lính với đôi lông mày bị cháy xém. Anh lính im lặng nhìn Yurka, nháy mắt một cách bí hiểm với cậu bé. Yurka mỉm cười.
“Aha!” – anh lính nói. – “Vậy là cậu vẫn còn sống khỏe?”
Yurka im lặng.
“Petrov!” – anh lính nói với ai đó hẳn như đang ngồi dưới đất gần chiếc ô tô. – “Có vẻ như công dân này đến từ thuộc địa của những người câm điếc”.
“Không phải!” – Yurka nói với giọng khản đặc đến nỗi chính cậu cũng cảm thấy xấu hổ. – “Em không điếc. Em đến từ Kherson. Thế các anh đến từ đâu?”
“Chúng tôi à?” – anh lính hỏi hỏi. – “Chúng tôi là người ở Kostroma, đến địa điểm này của cậu để tổ chức một tấm màn chắn quân Đức”.
Một giọng trầm từ gầm xe nói:
“Chào buổi sáng, cậu bạn trẻ. Cậu có muốn thử thịt hộp không? Thịt heo hầm đậu nhé?”
“Chào anh,” – Yurka khẽ trả lời và ngồi xuống. – “Em đang muốn khóc đây”.
Yurka nhảy ra ngoài. Khói bay thấp phía chân trời. Một anh lính cao lớn có râu ngồi trên đống gạch vụn gần chiếc xe và mở một cái lon thiếc. Anh nhìn Yurka và gật đầu. Một anh tài xế tóc đen đang dùng giẻ lau kính trong buồng lái.
“Arutyun,” – anh có râu gọi, – “đến đây ngồi xuống và cắt bánh mì nào. Đậu hầm ngon tuyệt cú mèo”.
“Tớ không cắt bánh mì được đâu,” người lái xe trả lời. – “Cả người tớ bốc mùi xăng. Ngay cả hút thuốc cạnh tớ cũng nguy hiểm lắm đấy”.
Đây là cách mà Yurka bắt đầu làm quen với các anh lính. Họ kể với cậu bé rằng họ đã lượm được cậu như thế nào vào lúc bình minh, ngay khi một màu xanh biếc bắt đầu lan ra trên thảo nguyên. Và Yurka, sau khi ăn đồ hộp, đã trở nên mạnh bạo hơn, kể với họ về Nikifor, về Ivan Lukich, về việc cậu, Yurka, sống ở Kherson và đã chạy trốn để tránh cho Ivan Lukich khỏi bị quân Đức hành quyết. Các anh lính lắng nghe và ngoáy những chiếc thìa trong hộp thiếc.
“Vậy là,” – anh lính mặt tàn nhang nói, – “màn thẩm vấn đã chỉ ra rằng đây là một công dân”, – anh lính làm khuôn mặt dữ tợn và nhìn Yurka, – “là con trai của một ngư dân, một người du kích ở Kinburn, và học trò của một giáo viên già, mà giáo viên này thích câu cá trên dòng Dnieper trong thời gian rảnh rỗi. Tôi đã hiểu đúng về cậu chưa, cậu bạn trẻ?”
“Đúng vậy ạ” – Yurka ngập ngừng trả lời và hỏi đề phòng: – “Các anh là ai?”
“Chúng tôi là thành viên của Hội những người yêu tiếng hót chim họa mi,” – anh lính mặt tàn nhang trả lời.
Yurka cười: anh mặt tàn nhang nói chuyện rất hóm hỉnh. Nhưng anh có râu và anh lái xe chắc đã quen với những cuộc trò chuyện của anh ta và tiếp tục ngoáy lon đậu, phớt lờ anh mặt tàn nhang. Chỉ có anh lái xe nói:
“Đừng lừa phỉnh thằng nhóc nữa. Chúng tôi là những thông tin viên.”
“Thế này nhé, cậu bé”, – người lính có râu nói, – “cậu sẽ không về Kherson một mình được đâu. Chắc chắn sẽ không đến được đâu. Vẫn còn rất nhiều mìn, và bọn tàn quân Đức lẻ tẻ trên thảo nguyên, chỉ có ma quỷ mới biết. Ngồi lên phía sau xe! Chúng tôi sẽ ra biển, và từ đó Arutyun sẽ quay xe lại Kherson. Và chúng tôi sẽ đưa cậu đến đó. Thỏa thuận thế nhé?”
“Đồng ý ạ”, – Yurka trả lời. – “Thế tại sao các anh đi về phía biển?”
“Biết nhiều quá thì sẽ hói đầu!”
Ngay sau đó xe bắt đầu chuyển bánh. Gió xào xạc bên tai. Bùn đất từ dưới bánh xe tung tóe lên cỏ non. Xe càng đi xa, gió thổi càng mạnh, anh lính tàn nhang càng hát to một bài hát không quen thuộc với Yurka:
“Ôi, những nẻo đường, lối đi phủ cỏ rêu!”
Đối với Yurka, dường như chiến tranh đã ở đâu đó rất xa và không có một tên lính Đức nào ở đây. Có lẽ dường như vì những anh lính đã không nhắc gì về cuộc chiến, hoặc có thể vì chiếc xe đang chạy về phía nam, ra biển, dọc theo một con đường quê hẻo lánh, trong khi trận chiến đang diễn ra ở phía bên này, ở phía tây. Và nếu không có toán tù binh Đức, chỉ được giải đi bởi hai người lính canh, thì Yurka đã hoàn toàn quên mất cuộc chiến. Đám lính Đức người ngợm bôi đen, như thể vừa bị hun khói, đang lội bùn một cách nặng nề với những đôi ủng thấp.
Xe dừng ở một lán đánh cá. Yurka nhảy ra và nheo mắt – một cơn gió đang tăng tốc tạt thẳng vào mặt cậu, và dưới vách đá, rất gần đó, biển đang chạy tới, như mặt gương tràn lên trên cát, mang theo bụi mặn.
Trong khi các anh lính kéo những bó dây và hộp đựng ra khỏi xe, Yurka chạy ra bờ biển. Sóng dâng cao, nước biển óng ánh xanh màu lục. Chúng sau đó vỗ ầm ì vào bờ cát rồi lại rút đi, kéo theo đá cuội, vỏ đồng đạn đồng và cả những vỏ quýt.
Xa xa là một dải bờ thấp đang vàng lên. Phía trên nó, những quả cầu đen từ những vụ nổ nhòe ra trên nền trời.
“Kinburn,” – Yurka nghĩ. – “Ở đó vẫn còn quân Đức. Nikifor chắc hẳn đang chiến đấu với chúng, hạ gục chúng, lùa chúng vào thẳng Biển Đen để bữa tối cho cá heo.”
Anh lái xe gọi Yurka và nói rằng đã đến lúc phải đi. Yurka vào lán để chào tạm biệt những người lính. Bên trong lán trống rỗng, đầy rác, có một băng ghế, và trong góc có treo tấm tượng thánh giống như trong ngôi nhà gỗ của chú trên đảo Volny: một ông lão ngăm đen mặc áo choàng bạc, Thánh Nicholas của thành Myra ở Lycia, người bảo trợ cho một tộc người đánh cá. Một nhánh liễu khô được cắm trước tấm tượng, và một chiếc mũ nồi Đức treo trên tường gần đó.
Anh lính mặt tàn nhang đang quét dọn lán bằng một chiếc chổi bện từ cây ngải. Anh gỡ cái mũ ra khỏi tường và ném nó vào trong lò – ngay vào chỗ ngọn lửa đang bùng cháy dưới chiếc cà mèn. Nhưng anh lính có râu đã rút chiếc mũ ra, mang nó đi và ném về phía thảo nguyên.
“Kulesh,” – anh ta nói, – “như vậy mới sạch sẽ. Thật chẳng tốt lành gì khi hít khói từ những thứ rác rưởi của bọn Đức.”
Yurka cảm ơn các anh lính và chào tạm biệt họ.
“Đợi tí!” – một anh lính mặt tàn nhang nói. – “Chúng ta phải nói chuyện.”
Anh lấy một hộp bánh quy ra khỏi túi ba lô của mình, mở nó ra, cẩn thận lục trong đó và đưa cho Yurka ba chiếc phao câu cá gắn lông ngỗng nhiều màu. Một cái có sọc xanh lam, cam và vàng, cái kia có hoa và cỏ nhỏ xíu, và cái thứ ba có vô số chấm nhiều màu, nhỏ như hạt anh túc.
“Tôi đã tô chúng đấy,” – anh mặt tàn nhang nói. – “Tôi cũng là một ngư dân. Tôi mang chúng bên mình đi khắp mọi nơi. Khi tôi mệt, tôi sẽ mở chúng ra, nhìn và chạm vào chúng như thể sẽ không còn chút mệt mỏi nào nữa. Cái thứ rỗng là một cái phao câu cá, nhưng hãy thử nghĩ xem nó sẽ nâng đỡ cho ta được điều gì. Cậu sẽ nhớ bình minh trên hồ của chúng ta, những bụi cây, mặt nước tĩnh lặng, làn hơi tỏa trên nó vào buổi sáng sớm, những con sếu đang hót trong đầm lầy. Tuyệt đấy chứ! Và ngay lập tức những bước đi của tôi sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Hãy nhận một chiếc phao cho cậu, một chiếc khác cho cha cậu và chiếc này có hoa cho thầy giáo của cậu. Và cậu hãy nói: quà của Ivan Semechkin, một ngư dân và một người lính, để tỏ lòng kính trọng tới họ.”
Yurka giấu phao vào mũ và rời đi, vừa bối rối vừa vui mừng.
Vào giữa ngày, chiếc xe dừng lại ở lối vào thành phố gần Slobodka. Yurka nhảy ra ngoài, chào tạm biệt anh lái xe và chạy đến khe núi của mình. Khói vẫn bao trùm thành phố. Những chiếc máy bay bằng nhôm bay vù vù trên bầu trời, và Yurka nhìn thấy những ngôi sao nhỏ màu đỏ trên cánh.
Yurka đi xuống khe núi, nhảy qua suối, nhìn thấy Slobodka và dừng lại. Những căn nhà gỗ ngoại ô bong tróc và xám xịt sáng lên như tuyết. Những người phụ nữ mặc váy kín mít đang trang điểm bức tường bằng những cái chổi dài, viền quanh cửa sổ bằng đường viền màu xanh lam, và Christina – một bà cô có răng trắng và mồm miệng bất cần – đã vẽ lên trên mỗi cửa sổ một bông mẫu đơn mỹ miều.
“Vẫn mạnh khỏe chứ!” – Christina hét lên với Yurka. – “Cả Slobodka được trang điểm lại sau khi bọn Đức rút đi. Bây giờ Slobodka của chúng ta giống như một thiên đường trên trời. Và nhà Ivan Lukich cũng thế.”
Yurka chạy đến nhà Ivan Lukich. Từ xa cậu đã thấy Ivan Lukich đang đứng trên ghế đẩu và dùng chổi quét cao dưới mái nhà. Lần đầu tiên, cửa sổ trong nhà được mở to, và những bức tranh mới lau chùi lấp lánh dưới ánh mặt trời.
“Ivan Lukich!” – Yurka hét lên và bắt đầu khóc. – “Chào bác!”
Cậu không thể nói gì hơn được nữa. Ivan Lukich quay người lại, thả chiếc chổi xuống, vội vàng bước xuống ghế đẩu, đi tới chỗ Yurka. Tròng kính của Ivan Lukich bị phấn vấy tung tóe.
Ivan Lukich nắm lấy vai Yurka, lay người, ôm hôn cậu và tháo kính ra. Những giọt lẫn đục phấn từ kính rơi xuống đất. Ivan Lukich lau mắt, nói:
“Cháu còn sống ư! Chắc là đói như sói con? Vẫn chưa đói à! Tại sao cháu lại bỏ đi? Cháu nghĩ là bác không biết ư. Bác đã biết hết và hiểu hết chuyện. Ngày mai quân du kích sẽ trở về từ Kinburn, Nikifor sẽ đến, và trông cháu giờ lấm lem cứ như một con quạ đen ấy. Nào! Thay quần áo đi, ấm chè sắp sôi rồi.”
Ivan Lukich lại lay hai vai Yurka và dẫn cậu vào nhà. Các phòng đều vui vẻ, có mùi thơm tho sạch sẽ của mùa xuân, sàn nhà được lau tinh tươm. Trên sàn nhà gần cửa sổ, hai con chim sẻ xù lông đang tranh nhau một con giun, mỗi con dùng mỏ kéo con giun về phía mình.
Nhìn thấy Ivan Lukich và Yurka, những con chim sẻ vội nhả con giun và bay thoát ra ngoài cửa sổ với một sự náo động khủng khiếp.
“Bọn ác quỷ!” – Ivan Lukich hét lên. – “Chúng đã ăn cắp những con giun.”
Ivan Lukich nhìn Yurka, đỏ mặt, lẩm bẩm:
“Cháu biết không, hồi sáng bác đã đào được cả đống giun. Không có mồi nào ngon hơn thế cho lũ cá rô. Và, có lẽ, ngay cả đối với lũ chép vền[6]. Vì thế… bác đã đào thêm để dự trữ.”
Sau đó, Yurka lấy ra hai chiếc phao tô từ mũ của mình và đưa nó cho Ivan Lukich.
“Đây là quà của một người lính và là một ngư dân,” – cậu nói. – “của Ivan Semechkin, để tỏ lòng kính trọng!”
Ivan Lukich cầm lấy những chiếc phao, cẩn thận chạm lướt ngón tay lên chúng rồi mỉm cười:
“Cảm ơn cháu! Thứ này sẽ đem lại may mắn. Một chiếc phao như vậy sẽ nổi trên mặt nước Dnieper, tựa như một bông hoa mọc ở quần đảo Hawaii. Vậy thì chúng ta sẽ ra sông Dnieper sau buổi trà nhé, Yurka! Cần câu của bác đang trong phong độ hoàn hảo!”
“Đi chứ, bác Ivan Lukich!” – Yurka trả lời.
Bên ngoài cửa sổ, các bà cô vui vẻ trò chuyện, Christina cất tiếng hát và lũ sẻ cũng hót vang. Những cây liễu nở hoa phảng phất mùi như vỏ cây cháy, và trên nền trời xanh lấp lánh lên những chiếc máy bay đang nhảy múa trong một vũ điệu vòng quanh thành phố và vùng nước ngập Dnieper.
MINH NGUYỄN dịch
Minh họa: B. Dekhterev, 1945.
Ghi chú
[1] Người Patagon: một tộc người thổ dân to lớn được đồn đại sống ở Patagonia, khu vực hiện này là Chile và Argentina.
[2] Vasily Surikov (1948-1916): họa sĩ nổi tiếng người Nga
[3] Ivan Aivazovsky (1817-1890): họa sĩ nổi tiếng người Nga
[4] Nicholas Miklouho-Maclay (1846-1888): nhà thám hiểm, nhà nhân chủng học nổi tiếng người Nga, ông đã du hành và nghiên cứu các tộc người ở đảo New Guinea.
[5] kuren: một dạng nhà chòi ở Ukraine, dùng để coi sóc vườn tược hay ruộng dưa hấu.
[6] cá chép vền: một loài chép bản địa ở châu Âu, tên khoa học là Abramis brama.