Translation

GIÃ TỪ MÙA HẠ


Truyện ngắn của Konstantin Paustovsky, Minh Nguyễn dịch. Nguyên tác: Прощание с летом, 1940.

Trong nhiều ngày, cơn mưa lạnh trút nước xuống không ngừng. Một cơn gió ướt át xào xạc cả khu vườn. Từ bốn giờ chiều chúng tôi đã thắp đèn dầu, bất giác như là mùa hạ đã vĩnh viễn bước qua và mặt đất ngày càng trôi sâu vào trong sương mù, vào trong bóng tối và cái rét căm khó chịu.

Lúc này đã là cuối tháng mười một – thời điểm buồn bã nhất trong làng. Chú mèo ngủ nướng cả ngày, cuộn tròn trên chiếc ghế bành cũ, và rùng mình giữa giấc ngủ khi bị những giọt nước thẫm đen hắt vào từ cửa sổ.

Những con đường bị xói lở. Một lớp bọt màu vàng nhạt như váng sữa trôi theo dòng nước. Những con chim cuối cùng đã nấp dưới mái hiên, và hơn một tuần nay chẳng hề có ai đến thăm chúng tôi: ông lão Mitry, Vanya Malyavin đều không đến, và giám đốc sở kiểm lâm cũng không.

Buổi tối là thời gian tuyệt nhất. Chúng tôi nhóm bếp lò. Lửa cháy bập bùng, phản chiếu một màu đỏ lập lòe lên các bức tường gỗ, và lên một bản khắc cũ – bức chân dung của hoạ sĩ Bryullov. Lưng tựa vào ghế, ông ta nhìn chúng tôi và dường như cũng giống với chúng tôi, đặt cuốn sách đang mở sang một bên, ngẫm nghĩ về những điều vừa đọc và lắng nghe tiếng mưa rì rào trên mái hiên lợp ván.

Những ngọn đèn cháy sáng, và chiếc ấm samovar “tàn tật” bằng đồng vẫn reo đi reo lại khúc ca giản đơn của nó. Ngay khi được mang vào phòng, nó lập tức trở nên thoải mái – có lẽ là vì những ô kính đã mờ đi vì sương và không còn thấy rõ nữa cành bạch dương lẻ loi cả ngày lẫn đêm gõ mình lên cửa sổ.

Sau buổi trà, chúng tôi ngồi bên bếp lò và đọc sách. Vào những buổi tối như vậy, thú hơn cả là đọc những cuốn tiểu thuyết rất dài và cảm động của Charles Dickens hoặc lướt qua những tập nặng trịch của tạp chí Niva và Zhivopisnoye Obozrenye xuất bản từ những năm xưa.

Vào ban đêm, Funtik, một chú chó dachshund[1] nhỏ có bộ lông đỏ, thỉnh thoảng lại kêu hét giữa cơn mộng mị. Tôi đành phải đứng dậy và trùm cho nó một chiếc chăn len ấm áp. Funtik dường như đang tỏ lòng biết ơn trong mơ, dè dặt liếm tay tôi, thở phào rồi lại thiếp đi. Bóng tối sau những bức tường ồn ã với những cái tạt của mưa và cú thốc của gió, và thật đáng sợ khi nghĩ đến những con người gặp phải đêm bão tố như vậy khi đang ở giữa khu rừng tối âm u.

Một đêm nọ, tôi thức dậy với một cảm giác kỳ lạ. Tôi ngỡ như rằng đã bị điếc trong một giấc mơ. Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe một quãng lâu, và cuối cùng nhận ra rằng tôi không hề điếc, mà chỉ đơn giản là do sự yên tĩnh lạ thường phía bên ngoài những bức tường của ngôi nhà. Sự yên tĩnh này được gọi là “chết lặng”. Mưa, gió chết lặng, và cả khu vườn ồn ã không yên cũng đã chết lặng. Người ta chỉ có thể nghe thấy tiếng ngáy của chú mèo đang ngủ say.

Tôi mở mắt. Ánh sáng trắng và đằm tràn ngập khắp căn phòng. Tôi đứng dậy và đến bên cửa sổ – đằng sau ô cửa kính mọi thứ chỉ toàn là tuyết và tĩnh lặng. Trên bầu trời mù sương, vầng trăng cô đơn treo trên cao đến chóng mặt, và xung quanh nó lấp lánh một vòng tròn vàng nhạt.

Tuyết đầu mùa rơi từ lúc nào? Tôi lại gần chiếc đồng hồ quả lắc. Phòng sáng đến nỗi có thể thấy rõ những mũi kim hiện lên đen thẫm. Đồng hồ chỉ hai giờ sáng.

Tôi đã ngủ quên từ nửa đêm. Điều này có nghĩa là trong vòng hai giờ, trái đất đã thay đổi một cách lạ thường, trong hai giờ ngắn ngủi, cái lạnh giá buốt đã làm say đắm những cánh đồng, những khu rừng và các mảnh vườn.

Qua cửa sổ, tôi nhìn thấy một chú chim lớn màu xám đang đậu trên cành phong trong vườn. Cành cây đung đưa, tuyết đổ xuống. Chú chim chậm rãi nhấp mình lên và bay đi, và tuyết tiếp tục rơi như mưa thủy tinh trút xuống cây thông Noel. Sau đó mọi thứ yên ắng trở lại.

Reuben tỉnh dậy. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ một lúc lâu, thở dài và nói:

“Tuyết đầu mùa thật hòa hợp với mặt đất.”

Mặt đất duyên dáng như một nàng dâu đang e ấp.

Và vào buổi sáng, mọi thứ xung quanh đều răng rắc giòn tan: những con đường đóng băng, những chiếc lá trước hiên nhà, những nhánh cây tầm ma đen nhô ra từ dưới tuyết.

Ông lão Mitry đến thăm và uống trà mừng chuyến đi bộ đầu mùa tuyết.

“Thế là mặt đất đã được gội sạch,” – ông nói, – “bằng nước tuyết từ một cái chậu bạc”.

“Cụ lấy những lời này từ đâu vậy, cụ Mitry?” – Reuben hỏi.

“Không đúng sao?” – ông già nhoẻn miệng cười. – “Người mẹ đã khuất của tôi nói rằng vào thời xưa, những người đẹp rửa mặt mình bằng tuyết đầu mùa từ một cái chum bạc và vì thế vẻ đẹp của họ không bao giờ tàn phai. Khi đó là trước cả thời Sa hoàng Peter cơ, anh bạn yêu quý  ạ, thời mà bọn cướp còn tung hoành trong các khu rừng địa phương làm khánh kiệt các lái buôn.”

Thật khó để ở yên trong nhà vào ngày đầu tiên của mùa đông. Chúng tôi đi dạo đến các hồ trong rừng. Ông lão Mitry đi cùng chúng tôi đến bìa rừng. Ông cũng muốn đi vào thăm các hồ, nhưng “xương khớp cứ đau nhức không yên.”

Khu rừng trang nghiêm, tươi sáng và tĩnh mịch.

Ngày dường như đang thiu thiu ngủ. Những bông tuyết cô đơn thỉnh thoảng rơi xuống từ vòm trời cao u ám. Chúng tôi thận trọng phả hơi thở vào tuyết, và chúng biến thành những giọt nước tinh khiết, sau đó trở nên mờ đi, đông cứng lại và lăn xuống đất như những hạt cườm.

Chúng tôi lang thang trong rừng cho đến khi trời chạng vạng, dạo quanh những địa điểm quen thuộc. Bầy hồng tước[2] xù lông co mình trong những bụi thanh lương trà[3] phủ đầy tuyết.

Chúng tôi hái vài chùm thanh lương trà đỏ bị giam trong băng giá – đó là ký ức cuối cùng của cả mùa hạ và mùa thu.

Trên một cái hồ nhỏ, – được gọi là đầm Larin – nơi thường có nhiều bèo tấm nổi lềnh bềnh. Bây giờ nước trong đầm rất thẫm màu và trong veo – tất cả bèo tấm đã chìm xuống đáy vào mùa đông.

Một dải băng tựa như thủy tinh đang mọc ra ở gần bờ đầm. Lớp băng trong suốt đến mức khó có thể nhìn thấy nó ngay cả khi lại gần. Tôi nhìn thấy một đàn chép pigus đang bơi trong vùng nước gần bờ, và ném một viên đá nhỏ vào chúng. Viên đá rơi xuống mặt băng, dội vang lên, những chú cá chép trong bộ vảy óng ánh giật mình lao xuống đáy, và cú ném để lại một vệt trắng sần sùi trên lớp băng. Đó là lý do duy nhất tại sao chúng tôi lại đoán được rằng có một lớp băng đã hình thành gần bờ đầm. Chúng tôi dùng tay bóp vụn từng miếng băng. Chúng giòn tan và để lại một thứ hỗn hợp mùi giữa tuyết và việt quất trên những ngón tay.

Ở đây đó giữa các khoảng rừng thưa, những chú chim bay qua và kêu rên rầu rĩ. Bầu trời trên đầu sáng trưng, trắng tinh, nhưng về phía đường chân trời, nó dày lên và có màu như chì. Từ đó xuất hiện những đám mây tuyết bay chậm.

Những khu rừng trở nên âm u và tĩnh lặng hơn, và cuối cùng thì tuyết đã rơi dày. Tuyết tan chảy trong làn nước hồ đen thẫm, cù nhột lên mặt, rắc lên làn sương xám của khu rừng.

Mùa đông bắt đầu thống trị vùng đất này, nhưng chúng tôi biết rằng dưới lớp tuyết trắng xóa, nếu dùng tay cào, bạn vẫn có thể tìm thấy những bông hoa rừng tươi rói, chúng tôi biết rằng lửa vẫn luôn lách tách trong bếp lò, rằng những chú chim sơn tước[4] vẫn ở lại trú đông cùng với chúng tôi, và đối với chúng tôi dường như mùa đông cũng đẹp tuyệt vời như mùa hạ.

MINH NGUYỄN dịch

Minh họa: K. Kuznetsov, 1945.

Ghi chú

[1] dachshund: một giống chó chân ngắn, có nguồn gốc từ Đức.

[2] hồng tước: một loài chim sẻ ức đỏ, tên khoa học là Pyrrhula pyrrhula.

[3] thanh lương trà: loại cây bản địa ở châu Âu có lá giống lá me, quả mọng mọc thành chùm màu đỏ, tên khoa học Sorbus aucuparia.

[4] sơn tước: một loài chim sẻ bản địa ở châu Âu, tên khoa học là Parus major.